Kiến Trúc Truyền Thống Đến Việc Bảo Tồn Bản Sắc

Kể từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, những bài học như “nhập môn kiến trúc” hay “khái niệm tính dân tộc của kiến trúc” luôn khiến tôi suy nghĩ sâu sắc. Tôi đã phải nghiên cứu và học hỏi rất nhiều về các chủ đề này. Dưới đây là một số điều mà tôi đã rút ra được và mong muốn chia sẻ để cùng thảo luận thêm về chủ đề này, với hy vọng sẽ làm sáng tỏ hơn một lĩnh vực vừa phức tạp nhưng cũng vô cùng quan trọng.

Mấy lời phân tích của giáo sư Nguyễn Hồng Phong

Lịch sử kiến trúc thế giới thường ghi nhận những công trình hoành tráng và vĩ đại của nhiều dân tộc. Khi nhìn lại kiến trúc cổ của nước ta, mặc dù quy mô thường nhỏ hơn, nhưng phương pháp xây dựng lại vô cùng tinh xảo. Có người từng bày tỏ sự ngạc nhiên khi thấy chùa Một Cột quá nhỏ bé, mặc dù đây là một công trình quan trọng trong kho tàng kiến trúc dân tộc – và du khách quốc tế cũng có những ấn tượng tương tự. Chùa Một Cột là một trường hợp đặc biệt, tuy nhiên nhiều địa điểm khác như chùa Bút Tháp, đình Đình Bảng, chùa Tây Phương hay Văn Miếu Quốc Tử Giám cũng không thể so sánh về quy mô với các đền đài cung miếu ở phương Đông hay phương Tây.

Chùa Một Cột xưa (Ảnh: phattuvietnam.net

Khi đọc cuốn “Tìm hiểu tính cách dân tộc” của Nguyễn Hồng Phong, tôi nhận thấy nhiều điều thú vị. Tác giả giải thích rằng do chúng ta phải tập trung sức người và tài nguyên vào việc đối phó với thiên nhiên khắc nghiệt và giặc ngoại xâm, nền kinh tế đã chịu ảnh hưởng nặng nề. Vì vậy, không thể đầu tư nhân lực cho những công trình lớn như ở các quốc gia khác. Thực tế là bối cảnh tự nhiên với bão lụt, hạn hán cùng lịch sử chống giặc đã khiến con người nơi đây không thể xây dựng những lâu đài hoành tráng mà thay vào đó là sự giản dị và tiết kiệm trong kiến trúc từ nhà cửa đến đình chùa. Điều này giúp tôi nhận ra một đặc điểm quan trọng trong tính cách dân tộc Việt Nam: sự cần cù giản dị đã tạo nên truyền thống kiến trúc khiêm tốn nhưng đầy ý nghĩa.

Đặc điểm khí hậu có ảnh hưởng gì?

Yếu tố khí hậu có ảnh hưởng rõ rệt đến đặc trưng kiến trúc của từng địa phương, từ đó hình thành nên bản sắc dân tộc trong kiến trúc, điều này là hiển nhiên. Trong điều kiện khí hậu nóng ẩm, kiến trúc Việt Nam từ nhà dân gian đến đền chùa, cung điện đều thể hiện cách con người ứng phó nhằm giảm thiểu tác động bất lợi của thiên nhiên; có thể nói rằng khí hậu đã ảnh hưởng đến giải pháp kiến trúc thông qua phản ứng của con người. Khi phân tích về “những mái nhà tranh cổ truyền”, nhà kiến trúc lão thành Nguyễn Cao Luyện đã chỉ ra một quy luật: “thiên nhiên không tự nó chi phối được cái cốt cách của nếp nhà; chính là do con người nhận thức rõ thiên nhiên mà sáng tạo ra cốt cách ấy trên đất nước mình.”

Từ đó đặt ra vấn đề: Muốn tìm hiểu đặc điểm kiến trúc dân tộc thì không thể bỏ qua những đặc điểm thiên nhiên, đặc biệt là yếu tố khí hậu – nguồn gốc phát sinh các giải pháp cho kiến trúc truyền thống. Chức năng hàng đầu của kiến trúc là giúp con người tạo dựng một không gian riêng biệt từ không gian chung. Đương nhiên, không gian riêng và môi trường nhỏ ấy phải đáp ứng nhu cầu sinh lý cơ bản: che nắng mưa, chống nóng mùa hè và giữ ấm mùa đông. Chính vì vậy mà trên trái đất tồn tại nhiều hình thái kiến trúc khác nhau như ở vùng lạnh hay vùng nóng; ngay cả trong vùng nóng cũng có sự khác biệt giữa nóng khô và nóng ẩm dẫn tới các dạng thức kiến trúc khác nhau.

Một du khách nước ngoài sau khi thăm nhiều công trình cổ Việt Nam được hỏi về ấn tượng sâu sắc nhất đã trả lời ngay rằng đó là “cái mái”. Thật vậy, trong bối cảnh khí hậu nóng ẩm với nắng gay gắt và mưa dữ dội thì mái nhà trở thành yếu tố tiên quyết bảo vệ con người trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Mái cần phải dốc để đảm bảo thoát nước tốt, rộng để che phủ toàn bộ ngôi nhà (che nắng xiên và mưa hất), đủ dày để đảm bảo khả năng cách nhiệt hiệu quả.

Mái nhà truyền thống có độ dốc, đảm bảo thoát nước và độ dày để cách nhiệt (Ảnh: BambuBuild)

Vì mái nhà quan trọng thế nên mặt trước của các công trình kiến trúc cổ thường có phần mái chiếm hơn nửa không gian từ trên xuống. Mái to, cột thấp là đặc điểm phổ biến ở vùng nóng ẩm và cũng là dấu ấn rõ nét trong kiến trúc Việt Nam. Nhớ lần thảo luận về lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, có người nói cột cao không hợp với dân tộc dù nhìn hùng vĩ. Dù cột cao hay thấp không phải yếu tố dân tộc nhưng quen nhìn kiến trúc truyền thống với cột thấp nên thấy lạ khi gặp hàng cột cao. Quả thật, mái nhà chiếm tỷ lệ lớn đã tạo ấn tượng mạnh và góp phần vào đặc tính kiến trúc dân tộc. Tôi nhận ra khí hậu ảnh hưởng lớn đến tính dân tộc của kiến trúc Việt Nam.

Tại một nước Châu Phi theo đạo Hồi

Việc đứng từ xa để quan sát ngôi nhà của mình đôi khi giúp ta nhận ra những điều mà khi ở bên trong không thể thấy được. Trong thời gian công tác tại Angiêri, tôi đã tận dụng thời gian rảnh để nghiên cứu và suy ngẫm về tính dân tộc trong kiến trúc. Đây là một quốc gia thuộc vùng khí hậu nóng khô, tạo cơ hội tốt để hiểu rõ hơn đặc trưng của khí hậu này so với khí hậu nóng ẩm.

Tại đây, trời quang đãng với cường độ bức xạ mặt trời rất lớn, ít mây nên tán xạ không đáng kể. Đặc biệt ở các khu vực gần sa mạc thường xuyên có gió cát và đôi khi là bão cát khiến cho việc di chuyển ngoài trời trở nên nóng bỏng. Tuy nhiên, khi vào bóng râm thì cảm giác hoàn toàn khác biệt. Phương pháp chống nóng ẩm tại đây chủ yếu là ngăn chặn bức xạ tích cực và tăng lượng hơi ẩm thay vì thông gió giảm độ ẩm như ở vùng nhiệt đới.

Kiến trúc nơi đây thuộc loại “kín”, nhằm hạn chế bức xạ mặt trời và giữ hơi ẩm trong nhà. Tại các vùng nông thôn, nhà bằng đất không nung rất phổ biến với ít cửa sổ nhỏ hẹp; mái nhà cũng làm bằng đất đạt hiệu quả cách nhiệt cao. Mặt bằng thường có dạng quây kín tạo thành sân trong; cửa mở hướng về sân này – nơi có không khí dễ chịu và tránh được ảnh hưởng của gió cát cũng như ánh nắng gay gắt.

Trong môi trường sa mạc khắc nghiệt, các điểm dân cư tập trung thành những ốc đảo nhỏ bé với mật độ xây dựng cao; nhà nọ che nắng cho nhà kia tạo ra môi trường sống dễ chịu hơn nhờ giảm thiểu sự bay hơi nước mạnh mẽ.

Theo quan niệm Hồi giáo truyền thống rằng gia đình là đơn vị đóng kín: phụ nữ ít ra khỏi nhà hoặc giao tiếp xã hội và vẫn dùng mạng che mặt khi ra ngoài – điều này phù hợp với kiến trúc khép kín do yêu cầu bảo vệ khỏi ánh nắng gay gắt cùng sự bay hơi cơ thể nhanh chóng dẫn đến y phục người địa phương cũng rất kín đáo phản ánh rõ nét mối liên hệ giữa khí hậu-y phục-kiến-trúc nơi đây.

Ngay cả tại đô thị hiện đại phát triển mạnh nhưng đặc điểm kiến-trúc-kín cùng mô-típ hoa văn trang trí Hồi giáo (chủ yếu hình học) vẫn được bảo tồn vững chắc ngay cả công trình lớn như trường học-nhà văn hóa-trụ sở-cơ-quan… Tính truyền thống mạnh mẽ kết hợp đạo-Hồi coi quốc-đạo dù nhiều công trình hiện đại xây dựng hoàn toàn vật liệu kỹ thuật từ Châu Âu nhưng phong cách truyền-thống vẫn phong phú vững chắc tồn-tại song-song hai loại kiến-trúc tương-phản rõ nét đồng hành mọi nơi mà không lo lắng lai-tạp giữa chúng!

Kiến trúc hiện đại và tính hiện đại của kiến trúc

Khái niệm hiện đại khi đề cập đến tính dân tộc và hiện đại của kiến trúc cần được hiểu như thế nào? Trong lịch sử kiến trúc, theo quan điểm của Michel Ragon, thời kỳ hiện đại của kiến trúc bắt đầu khi xuất hiện các công trình lắp dựng bằng vật liệu kim loại, tiêu biểu là “lâu đài Pha lê” được xây dựng nhân dịp triển lãm quốc tế lần đầu tiên tổ chức tại Anh vào năm 1850.

Lâu đài Pha lê – Kỳ quan kiến trúc thế kỷ 19 (Ảnh: Archdaily)

Công trình này xứng đáng được coi là cột mốc cho một thời kỳ mới của kiến trúc, nhờ vào việc sử dụng vật liệu xây dựng tiên tiến như sắt thép và thủy tinh, cùng với phương pháp lắp dựng hiện đại. Công trình này không chỉ tạo ra một không gian rộng lớn (trên diện tích 7,5 ha) với ánh sáng tự nhiên chan hòa phù hợp cho chức năng nhà trưng bày mà còn đảm bảo tốc độ xây dựng kỷ lục theo kiểu sản xuất công nghiệp.

Thời kỳ hiện đại của kiến trúc là kết quả của sự phát triển khoa học kỹ thuật, trước hết là trong việc chế tạo các vật liệu xây dựng mới như sắt thép, bê tông, kính và chất dẻo. Kèm theo đó là các phương pháp xây dựng công nghiệp mới, tạo ra những công trình có tính năng sử dụng và diễn cảm nghệ thuật hoàn toàn khác biệt so với những công trình trước đây dùng gạch, đá hay gỗ. Do đó, tính hiện đại của kiến trúc thể hiện qua đặc trưng kỹ thuật cũng như sự phù hợp về công năng với yêu cầu của lối sống đương đại.

Mỗi loại vật liệu có “ngôn ngữ” riêng nhưng đôi khi người ta muốn chúng “nói” bằng ngôn ngữ khác; chẳng hạn có những công trình bê tông cốt thép lại mang phong cách kiến trúc gỗ. Dù cách làm này đôi lúc được đánh giá cao nhưng tôi e rằng nó chưa thực sự thỏa đáng vì mang tính áp đặt. Việc sử dụng phổ biến các loại vật liệu xây dựng hiện đại đã làm giảm đi nhiều nét đặc sắc địa phương trong kiến trúc từng vùng. Có lo ngại rằng điều này sẽ dẫn đến xu hướng “thế giới hóa” trong kiến trúc hiện đại; tuy nhiên thực tế không hẳn vậy vì vật liệu chỉ là một yếu tố cấu thành nên kiến trúc trong khi linh hồn của nó nằm ở việc tổ chức không gian theo chức năng sử dụng.

Với sự phát triển mạnh mẽ của ngành thông tin và giao thông vận tải, những nơi từng xa xôi nay đã không còn cô lập nữa. Người dân dễ dàng tiếp cận sản phẩm từ vùng khác và nhiều kết cấu xây dựng trở thành sản phẩm công nghiệp lưu thông khắp nơi khiến đặc điểm địa phương ngày càng giảm bớt; chính từ xu thế ấy mà vấn đề bản sắc dân tộc trong kiến trúc được đặt ra như một đối trọng cho xu hướng thống nhất hóa trên toàn cầu.

Trở lại vấn đề của ta

Các công trình kiến trúc của chúng ta, dù cổ xưa hay hiện đại, đều chịu ảnh hưởng sâu sắc từ môi trường nhiệt đới ẩm ướt và gió mùa. Những yếu tố thiên nhiên này không chỉ định hình chức năng tạo ra môi trường sống nhân tạo mà còn tách biệt khỏi môi trường tự nhiên. Việc che mưa và tránh nắng hiệu quả cùng với đảm bảo thông gió tự nhiên là những yêu cầu thiết yếu đối với kiến trúc tại đây. Che mưa phải đủ mạnh để chống lại những cơn mưa lớn kèm theo gió mạnh, trong khi che nắng cần ngăn chặn cả trực xạ và tán xạ do lượng mây dày đặc.

Yếu tố khí hậu có thể được coi là một trong những yếu tố quan trọng nhất góp phần vào bản sắc dân tộc của kiến trúc nước ta. Nó không chỉ ảnh hưởng đến các nguyên tắc xây dựng và cấu tạo các bộ phận công trình trong kiến trúc truyền thống mà còn được duy trì trong các thiết kế hiện đại. Một số kiến trúc sư Pháp đã thành công khi áp dụng những nguyên tắc này vào các công trình trên đất Việt Nam, như Bảo tàng Lịch sử (Trường Viễn Đông Bác cổ cũ), Bộ Ngoại giao (Sở Tài chính cũ), Viện Vệ sinh dịch tễ (Viện Yersin), Trường Đại học Y cũ (Đường Lê Thánh Tông).

Trong kiến trúc truyền thống, để hỗ trợ cho chức năng che mưa và tránh nắng của mái nhà, người ta thường sử dụng các tấm giại giúp giảm bớt ánh sáng chói chang và ngăn chặn mưa hắt. Giải pháp này đã được tái hiện trong nhiều thiết kế mới với việc sử dụng các bức tường hoa văn trang trí khác nhau, tạo nên ấn tượng về sự kết nối với truyền thống. Vật liệu xây dựng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện tính địa phương cũng như góp phần hình thành bản sắc dân tộc của nền kiến trúc nước nhà.

Bảo tàng lịch sử (Trường Viễn Đông Bác cổ cũ) (Ảnh: Website Trung tâm Lưu trữ quốc gia I)

Với mấy vật liệu như tre, gỗ, đất nung, đá vôi, đá ong… thì kiến trúc dễ có màu sắc dân tộc lắm. Mấy thứ này giờ không còn phổ biến nữa vì bê tông, kim loại, kính và nhựa đã chiếm chỗ rồi. Nhưng mà nếu khéo léo kết hợp với men sứ hay gốm thì vẫn tạo ra hiệu quả đáng kể đó. Khí hậu nóng ẩm cũng giúp cây cối phát triển tốt nên cây xanh là phần không thể thiếu trong kiến trúc truyền thống. Cùng với cây xanh là mặt nước tự nhiên hay nhân tạo làm cho cảnh quan thêm sinh động ở vùng nhiệt đới nóng ẩm này. Khai thác sao cho đúng để thể hiện được nét đặc trưng của nghệ thuật kiến trúc Việt Nam cũng là một chủ đề thú vị cần tìm hiểu thêm đấy! Như vườn bên trong khách sạn Thắng Lợi chẳng hạn – một ví dụ tuyệt vời về việc tận dụng yếu tố thực vật và mặt nước để tăng phong cách dân tộc.

Tóm lại theo mình thấy thì đặc điểm truyền thống của kiến trúc Việt Nam nằm ở:

+ Kiến trúc giản dị nhưng thanh thoát với quy mô nhỏ nhắn vừa đủ cho nhu cầu thực tế.

+ Kiến trúc gần gũi thiên nhiên, thích ứng tốt với khí hậu nhiệt đới bằng cách che nắng mưa và thông gió tự nhiên.

+ Sử dụng nguyên liệu địa phương tinh tế thể hiện sự khéo léo của người Việt.

Dù bây giờ đã bước vào thời kỳ hiện đại nhưng nhiều đặc điểm trên vẫn giữ được giá trị giúp đáp ứng nhu cầu tâm lý và thẩm mỹ của người Việt dù vật chất có thay đổi thế nào đi nữa!


Địa chỉ: 63/20 Lê Lai, Phường 3, Quận Gò Vấp, TP.HCM
Điện thoại: 0587878388
Email: akitek.vn@gmail.com
Website: akitek.vn
Akitek.vn là đơn vị hàng đầu chuyên tư vấn thiết kế kiến trúc, kết cấu MEP và thi công nội thất, thiết kế thi công các công trình biệt thự, nhà phố, căn hộ, chung cư và đặc biệt thiết kế trang trí văn phòng, showroom, nhà hàng, khách sạn…

Nguồn: Khái niệm kiến trúc dân tộc

Leave A Comment

0916961139